Thư Gửi Các Đối Tác 1959 - Warren Buffett
1/ Thận trọng với blue chip được định giá cao; 2/ Chấp nhận hình phạt do quá thận trọng còn hơn đối mặt với hậu quả thua lỗ vốn vĩnh viễn; 3/ Cây cối không mọc lên tận trời xanh.
Tình Hình Thị Trường Chứng Khoán Năm 1959
Chỉ số Dow-Jones Industrial Average, chắc chắn là chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá diễn biến của thị trường chứng khoán, đã thể hiện một bức tranh có phần sai lệch trong năm 1959. Chỉ số này ghi nhận mức tăng từ 583 lên 679, tức là 16,4% trong năm. Khi cộng thêm cổ tức mà người nắm giữ trung bình của chỉ số này sẽ nhận được, mức tăng tổng thể được ghi nhận cho năm 1959 là 19,9%.
Mặc dù số liệu này cho thấy một thị trường mạnh mẽ, số lượng cổ phiếu giảm giá trên Sở Giao dịch Chứng khoán New York trong năm lại nhiều hơn số lượng cổ phiếu tăng giá, với tỷ lệ 710 giảm so với 628 tăng. Cả chỉ số Dow-Jones Railroad Average và Utility Average đều ghi nhận sự sụt giảm.
Phần lớn các quỹ đầu tư gặp khó khăn so với chỉ số Công nghiệp. Tri-Continental Corp., công ty đầu tư dạng đóng lớn nhất nước Mỹ (tổng tài sản 400 triệu đô la) đạt mức tăng tổng thể khoảng 5,7% trong năm. Fred Brown, Chủ tịch của công ty này, phát biểu như sau trong một bài diễn văn gần đây tại Hiệp hội Phân tích: "Nhưng, mặc dù chúng ta hài lòng với danh mục đầu tư, kết quả thị trường của các khoản nắm giữ của Tri-Continental trong năm 1959 khiến chúng ta thất vọng. Những thị trường mà tâm lý và sự hưng phấn của nhà đầu tư đóng vai trò lớn như năm 1959 là những thị trường khó khăn đối với các nhà quản lý đầu tư được đào tạo theo giá trị và đầu tư dài hạn. Có lẽ chúng ta chưa điều chỉnh đúng đôi ủng không gian của mình cho phù hợp. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng có giới hạn về rủi ro mà một tổ chức đầu tư như Tri-Continental nên chấp nhận với tiền của cổ đông, và chúng ta tin rằng danh mục đầu tư đã được chuẩn bị cho năm tới."
Massachusetts Investors Trust, quỹ tương hỗ lớn nhất nước Mỹ với tài sản 1,5 tỷ đô la, ghi nhận mức tăng tổng thể khoảng 9% trong năm.
Hầu hết các bạn đều biết tôi đã lo ngại về mức định giá chung của thị trường chứng khoán trong vài năm qua. Cho đến nay, sự thận trọng này vẫn chưa cần thiết. So với các tiêu chuẩn trước đây, mức giá hiện tại của các chứng khoán "blue chip" có chứa đựng một thành phần đầu cơ đáng kể kèm theo đó là rủi ro thua lỗ tương ứng. Có thể đang hình thành một tiêu chuẩn định giá mới để thay thế vĩnh viễn tiêu chuẩn cũ. Tôi không nghĩ vậy. Tôi hoàn toàn có thể sai; tuy nhiên, tôi thà chấp nhận những hình phạt do quá thận trọng còn hơn phải đối mặt với hậu quả của sai lầm – có thể là thua lỗ vốn vĩnh viễn – xuất phát từ việc chấp nhận một triết lý “Kỷ nguyên mới” nơi mà cây cối thật sự mọc lên tận trời xanh.
Kết Quả Năm 1959
Trong các thư trước, tôi đã nhấn mạnh một tiêu chuẩn đề xuất để đánh giá hiệu suất, bao gồm việc đạt được kết quả tương đối tốt (so với chỉ số thị trường chung và các công ty đầu tư hàng đầu) trong các giai đoạn thị trường giảm hoặc đi ngang, nhưng có kết quả tương đối kém trong các thị trường tăng mạnh.
Chúng ta đã may mắn đạt được kết quả khá tốt trong năm 1959. Sáu quỹ hợp danh hoạt động trong suốt năm ghi nhận mức tăng ròng tổng thể dao động từ 22,3% đến 30,0%, với mức trung bình khoảng 25,9%. Danh mục đầu tư của các hợp danh này hiện giờ có mức độ tương đồng khoảng 80%, nhưng vẫn có một số khác biệt do chứng khoán và tiền mặt có sẵn vào các thời điểm khác nhau, các khoản thanh toán cho đối tác, v.v. Trong vài năm qua, không có hợp danh nào liên tục đứng đầu hoặc cuối về hiệu suất qua các năm, và sự chênh lệch này đang thu hẹp khi danh mục đầu tư trở nên tương đồng hơn.
Lợi nhuận ròng tổng thể được xác định dựa trên giá trị thị trường vào đầu và cuối năm, đã điều chỉnh theo các khoản thanh toán cho đối tác hoặc khoản góp vốn nhận được từ họ. Đây không phải là lợi nhuận thực tế đã hiện thực hóa trong năm, mà nhằm đo lường sự thay đổi về giá trị thanh lý trong năm. Con số này được tính trước khi trừ lãi suất cho đối tác (nếu được quy định trong thỏa thuận hợp danh) và trước khi chia lợi nhuận cho đối tác chung, nhưng đã bao gồm chi phí vận hành.
Chi phí vận hành chính là thuế tài sản vô hình của bang Nebraska, chiếm 0,4% giá trị thị trường của hầu hết các chứng khoán. Năm ngoái là lần đầu tiên loại thuế này được thực thi hiệu quả và đương nhiên đã làm giảm kết quả của chúng ta ở mức 0,4%.
Danh Mục Đầu Tư Hiện Tại
Năm ngoái, tôi đã đề cập đến một khoản đầu tư mới chiếm khoảng 25% tài sản của các hợp danh khác nhau. Hiện nay, khoản đầu tư này chiếm khoảng 35% tài sản. Đây là một tỷ lệ đặc biệt lớn, nhưng đã được tiến hành vì lý do chính đáng. Trên thực tế, công ty này phần nào giống một quỹ đầu tư, sở hữu khoảng ba mươi đến bốn mươi chứng khoán khác nhau có chất lượng cao. Khoản đầu tư của chúng ta được tiến hành và được ghi nhận ở mức chiết khấu đáng kể so với giá trị tài sản, dựa trên giá trị thị trường của các chứng khoán mà họ nắm giữ và đánh giá thận trọng về hoạt động kinh doanh.
Chúng ta là cổ đông lớn nhất của công ty này với khoảng cách lớn, và hai cổ đông lớn còn lại cũng đồng thuận với các ý tưởng của chúng ta. Xác suất là rất cao rằng hiệu suất của khoản đầu tư này sẽ vượt trội so với thị trường chung cho đến khi nó được thoái vốn, và tôi hy vọng điều đó sẽ xảy ra trong năm nay.
65% còn lại của danh mục là các chứng khoán mà tôi cho là bị định giá thấp và các thương vụ đặc biệt. Trong phạm vi có thể, tôi vẫn tiếp tục cố gắng đầu tư vào các tình huống ít chịu ảnh hưởng từ biến động chung của thị trường.
Chính sách này nên dẫn đến kết quả vượt trội trong thị trường giá xuống và kết quả trung bình trong thị trường giá lên. Dự đoán đầu tiên có thể sẽ được kiểm chứng trong năm nay vì, tại thời điểm viết thư này, chỉ số Dow-Jones đã mất hơn một nửa mức tăng của năm 1959.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào hoặc nếu tôi chưa trình bày rõ ở điểm nào, tôi sẽ rất vui được nghe phản hồi từ bạn.
Warren E. Buffett
20-2-1960