Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập
Đo lường chất lượng lợi nhuận và cho vay của ngân hàng thông qua chỉ số Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập. Trong đó, Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong Lãi, phí phải thu.
Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng
Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng phản ánh số lãi tích lũy mà ngân hàng đã hạch toán vào Thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự ở Báo cáo Kết quả hoạt động nhưng chưa được khách hàng chi trả. Ngân hàng chỉ được hạch toán Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng đối với các khoản nợ được phân loại là Nợ đủ tiêu chuẩn (nợ nhóm 1).
Ví dụ: Ngân hàng cho khách hàng A vay 100 tỷ với lãi suất 12% vào cuối tháng 2. Khi lập Báo cáo tài chính quý 1, khách hàng A chưa thanh toán lãi vay vào cuối tháng 3 nhưng vẫn nằm trong nợ nhóm 1 (nợ quá hạn dưới 10 ngày) nên ngân hàng hạch toán: a) 1 tỷ vào Thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự ở Báo cáo Kết quả hoạt động; b) 1 tỷ vào Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng ở Bảng Cân đối kế toán. Chúng ta thấy rằng dù ngân hàng đã ghi nhận 1 tỷ thu nhập, nhưng trên thực tế chưa nhận được đồng nào. Đây chính là khoản lãi phải thu (hay lãi dự thu) – tạo ra lợi nhuận kế toán nhưng chưa đem lại dòng tiền thực.
Kiên thấy khoản mục này khá giống với Phải thu khách hàng đối với doanh nghiệp phi tài chính vì nó phản ánh doanh số tích lũy mà doanh nghiệp đã hạch toán vào Doanh thu ở Báo cáo Kết quả kinh doanh nhưng chưa được khách hàng chi trả.
Tỷ trọng trong Các khoản lãi, phí phải thu
Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng là một thành phần trong Các khoản lãi, phí phải thu ở khoản mục Tài sản Có khác (phần Tài sản) trên Bảng Cân đối kế toán của ngân hàng. Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ trọng rất lớn (~ 70%) trong Các khoản lãi, phí phải thu. Vì vậy sự biến động của Các khoản lãi, phí phải thu phần lớn là do Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng chi phối.
Thoái Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng
Nếu khách hàng chi trả đúng hạn thì Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng sẽ chuyển thành tiền để ngân hàng quay vòng vốn (tiếp tục cho vay hay đầu tư sinh lãi). Còn nếu khách hàng không chi trả đúng hạn thì khoản nợ từ nhóm 1 sẽ chuyển sang các nhóm cao hơn và ngân hàng phải thoái lãi đã ghi nhận vào Thu nhập lãi ở Báo cáo Kết quả hoạt động.
Ví dụ: Nếu khách hàng A ở trên tới cuối tháng 6 vẫn không chi trả khoản lãi đợt 1 (quá hạn 4 tháng) thì khoản nợ sẽ bị chuyển sang nhóm 3. Lúc này, ngân hàng sẽ ghi giảm 1 tỷ trong Thu nhập lãi hoặc tăng 1 tỷ trong Chi phí lãi ở Báo cáo Kết quả hoạt động quý 2, tức thoái Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng đã ghi nhận trong quý 1. Đồng thời, khoản mục Các khoản lãi, phí phải thu cũng giảm 1 tỷ và ngân hàng sẽ theo dõi ngoại bảng để đôn đốc thu hồi, xử lý theo quy định của pháp luật. Tới khi ngân hàng thu được thì sẽ hạch toán lại vào Thu nhập lãi.
Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập
Từ những phân tích ở trên, Kiên dùng chỉ số Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập để đánh giá tương đối chất lượng Tổng thu nhập của các ngân hàng. Chỉ số này cho biết cứ 100 đồng Tổng thu nhập trong kỳ thì ngân hàng có tương ứng bao nhiêu đồng Lãi, phí phải thu tích lũy tới cuối kỳ.
Biểu đồ trên tổng hợp chỉ số Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập của 27 ngân hàng trên 3 sàn chứng khoán trong Q2.2025. Và cũng không hề bất ngờ khi VCB đang có chất lượng Tổng thu nhập tốt nhất trong Q2.2025. Một số ngân hàng khác có chỉ số này dao động ở ngưỡng 58% - 75% cũng ở mức an toàn. Với những ngân hàng có chỉ số này quá cao thì có rủi ro phải thoái Lãi phải thu từ hoạt động tín dụng khá cao.
Ngoài ra, chỉ số Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập ở mức quá cao cũng phản ánh chất lượng nhiều khoản cho vay không tốt của ngân hàng. Bởi vì chất lượng nhiều khoản cho vay không tốt nên mới sinh ra Lãi, phí phải thu tích tụ quá nhiều.
---
Tóm lại, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, Kiên cho rằng không nên chỉ nhìn vào mức tăng trưởng lãi ròng, mà cần soi kỹ chất lượng của thu nhập đã tạo ra khoản lãi đó thông qua chỉ số Lãi, phí phải thu/Tổng thu nhập. Và cũng từ chỉ số này, chúng ta cũng có thể đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng ra sao.
Vậy chỉ số này chắc dưới 80% là tạm ổn bác K nhỉ