Cách Đào Sâu Cty S&L Của Cụ Peter Lynch
Cụ Peter Lynch minh họa cách đào sâu một S&L bằng nhiều ví dụ cụ thể, thậm chí còn trực tiếp gọi điện cho cty để trao đổi với ban lãnh đạo - vừa làm rõ thắc mắc, vừa học thêm điều mới.
Một nhà đầu tư bình thường có thể dừng lại ở đây: chọn năm công ty tiết kiệm và cho vay (S&L) phù hợp với “mẫu hình Jimmy Stewart”, đầu tư một khoản bằng nhau vào mỗi công ty, rồi chờ đợi lợi nhuận thuận lợi. Sẽ có một S&L hoạt động tốt hơn mong đợi, ba công ty “ổn”, và một công ty kém, nhưng kết quả tổng thể chắc chắn sẽ vượt trội so với việc bỏ tiền vào một Coca-Cola hay Merck bị định giá quá cao.
Nhưng vì tôi vốn tò mò và không muốn hoàn toàn dựa vào thông tin gián tiếp, tôi thường tìm cách nâng cao cơ hội bằng cách gọi điện trực tiếp đến các công ty trước khi đầu tư. Điều này làm hóa đơn điện thoại tăng, nhưng về lâu dài thì rất đáng giá.
Thông thường tôi có thể nói chuyện với chủ tịch, CEO, hoặc một quan chức cấp cao khác. Hoặc là tôi hỏi những chi tiết cụ thể, hoặc là tôi “thả câu” xem có bất ngờ nào chưa lọt vào tầm ngắm của giới phân tích Phố Wall. Ví dụ, Glacier Bancorp có tỷ lệ cho vay bất động sản thương mại cao hơn mức tôi muốn thấy ở một S&L mạnh. Tôi sẽ không bao giờ mua hoặc khuyến nghị cổ phiếu này nếu chưa làm rõ vấn đề trực tiếp với công ty.
Bạn không cần phải là chuyên gia để nói chuyện với một S&L, nhưng bạn cần hiểu cơ bản về cách họ vận hành: họ cần những người gửi tiền trung thành giữ tiền trong tài khoản tiết kiệm và tài khoản thanh toán; họ cần kiếm lời từ số tiền đó bằng cách cho vay – nhưng không phải cho vay những người sẽ vỡ nợ; và họ cần chi phí vận hành thấp để tối đa hóa lợi nhuận. Giới ngân hàng có câu: “Sống nhờ ba và sáu” – huy động với lãi suất 3%, cho vay với lãi suất 6%, rồi đi đánh golf lúc 3 giờ.
Tôi đã gọi sáu cuộc điện thoại đến sáu S&L (bốn công ty mạnh và hai công ty “tái sinh”) để thu thập chi tiết cần thiết. Riêng Eagle Financial thì tôi không cần gọi, vì công ty này theo năm tài chính từ tháng 9 đến tháng 9, nên báo cáo thường niên đã có sẵn trên bàn tôi đúng lúc, và nó giống như một giấc mơ của thanh tra ngân hàng. Các báo cáo thường niên của những công ty khác thì phải đến tháng 2 hoặc tháng 3 mới có. Đây là những gì tôi phát hiện từ các cuộc trò chuyện:
GLACIER BANCORP
Tôi gọi cho Glacier vào ngày 26 tháng 12. Hôm đó tôi mặc quần kẻ ca rô và áo len chui đầu đến văn phòng ở Boston. Cả tòa nhà trống trơn, chỉ còn tôi và anh bảo vệ. Ngày nghỉ lễ là thời điểm tuyệt vời để làm loại việc này. Tôi luôn ấn tượng khi thấy lãnh đạo cấp cao vẫn ngồi ở bàn làm việc vào ngày 26 tháng 12.
Trên bàn tôi là tập hồ sơ Glacier Bancorp. Cổ phiếu đang giao dịch ở mức 12 đô một cổ phần, tăng 60% so với năm trước. Đây là một công ty tăng trưởng 12–15% mỗi năm, bán ở mức P/E 10 – không phải món hời đặc biệt, nhưng cũng chẳng có nhiều rủi ro.
Trước đây công ty có tên First Federal Savings and Loan of Kalispell, và tôi ước họ giữ nguyên tên cũ. Nghe thì cổ lỗ và mang tính địa phương, nhưng với tôi, đó lại là điều an tâm. Tôi thích “cổ lỗ và địa phương” hơn “thời thượng và tinh vi”, vốn thường đồng nghĩa với sự tuyệt vọng trong việc đánh bóng hình ảnh.
Tôi thích những công ty tập trung vào công việc chính, mặc cho hình ảnh tự chăm sóc lấy nó. Thật không may, nhiều tổ chức tài chính lại có thói quen bỏ chữ “bank” trong tên và thay bằng “bancorp”. Tôi biết “bank” là gì, nhưng “bancorp” khiến tôi lo lắng.
Dù sao thì, người nhấc máy ở Glacier Bancorp cho biết họ đang tổ chức tiệc chia tay hưu trí cho một vị lãnh đạo, nhưng sẽ báo cho Chủ tịch Charles Mercord biết tôi gọi. Chắc họ đã kéo ông ra khỏi bữa tiệc, vì vài phút sau ông Mercord gọi lại cho tôi.
Hỏi một chủ tịch hay CEO về lợi nhuận công ty là chuyện nhạy cảm. Bạn sẽ chẳng đi đến đâu nếu buột miệng hỏi: “Năm tới anh sẽ kiếm bao nhiêu?” Trước tiên phải tạo được thiện cảm. Chúng tôi nói chuyện về núi non. Tôi kể rằng cả gia đình Lynch từng đi thăm tất cả các bang miền Tây để xem công viên quốc gia, và chúng tôi rất yêu Montana. Chúng tôi bàn về ngành gỗ, con cú đốm, khu trượt tuyết Big Mountain, và nhà máy luyện đồng lớn của Anaconda – một công ty mà tôi từng nhiều lần ghé thăm với tư cách nhà phân tích.
Rồi tôi khéo léo đưa vào những câu hỏi mang tính đầu tư nghiêm túc hơn, như “Dân số ở đó thế nào?”, “Thị trấn ở độ cao bao nhiêu?”, dần dần dẫn tới những câu nặng ký hơn như: “Anh có mở thêm chi nhánh mới hay vẫn giữ nguyên hệ thống hiện tại?”. Tôi muốn cảm nhận tâm thế của Glacier.
Tôi tiếp tục hỏi: “Có gì bất thường trong quý ba không? Tôi thấy các ông lãi 38 xu.”. Tốt nhất là nên rắc vài thông tin như thế vào câu hỏi, để người đối thoại nghĩ rằng bạn đã làm bài tập của mình rồi.
Không khí ở Glacier rất lạc quan. Các khoản nợ xấu gần như không tồn tại. Cả năm 1991, Glacier chỉ phải xóa nợ 16.000 đô. Công ty đã tăng cổ tức năm thứ 15 liên tiếp. Và họ vừa mua lại hai S&L khác với những cái tên thật tuyệt: First National Bank of Whitefish và First National Bank of Eureka.
Đây chính là cách nhiều S&L mạnh sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong vài năm tới: thâu tóm tiền gửi quý giá từ các S&L gặp khó hoặc đã phá sản. Glacier có thể nhập tiền gửi từ Whitefish vào hệ thống, từ đó cho vay nhiều hơn. Họ cũng có thể cắt giảm chi phí quản lý, vì hai S&L nhập vào sẽ tiết kiệm hơn một.
“Tôi thấy anh đang xây dựng một tài sản tốt ở đây”, tôi nói, mở ra câu chuyện về thương vụ Whitefish. “Chắc chắn điều này có lợi về mặt kế toán.”. Điều duy nhất khiến tôi lo là Glacier có thể đã trả giá quá cao cho vụ mua lại, nên tôi khéo léo gợi ý: “Tôi đoán anh phải trả cao hơn nhiều so với giá trị sổ sách?”. Nhưng không, Glacier không hề trả quá cao.
Chúng tôi nói về 9,2% khoản vay bất động sản thương mại của Glacier – con số duy nhất trong Thrift Digest làm tôi băn khoăn. Nếu đây là một S&L ở New England, tôi đã tránh xa, nhưng Montana không giống Massachusetts. Chủ tịch Glacier đảm bảo với tôi rằng họ không cho vay mấy tay phát triển dự án văn phòng bỏ hoang hay căn hộ nghỉ dưỡng ế ẩm. Các khoản vay bất động sản thương mại của Glacier chủ yếu là cho nhà ở nhiều hộ gia đình, vốn rất được ưa chuộng. Dân số Montana đang tăng, mỗi năm hàng ngàn người chạy khỏi khói bụi và thuế ở California đến định cư tại “tiểu bang Bầu Trời Cao rộng” này.
Tôi không bao giờ kết thúc cuộc gọi mà không hỏi: “Anh ngưỡng mộ công ty nào khác nhất?”. Nếu CEO Bethlehem Steel nói ngưỡng mộ Microsoft thì chẳng có ý nghĩa gì, nhưng nếu một lãnh đạo S&L khen ngợi một S&L khác, thì công ty đó hẳn đang làm điều gì đúng. Tôi từng tìm được nhiều cổ phiếu hay theo cách này. Khi Mercord nhắc đến United Savings và Security Federal, tôi liền vừa nghe vừa mở S&P Stock Guide để lấy mã cổ phiếu (UBMT và SFBM), rồi tra trên Quotron. Cả hai đều là S&L ở Montana với tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản ấn tượng (Security Federal tới 20%!). Tôi đưa chúng vào danh sách “theo dõi sau”.
(Quotron là một hệ thống cung cấp thông tin chứng khoán ra đời vào năm 1960 với màn hình hiển thị màu xanh lá cây trên nền đen. Quotron cung cấp giá chứng khoán theo thời gian thực, các thông tin khác về chứng khoán và cho phép nhập mã chứng khoán để tìm kiếm.)
GERMANTOWN SAVINGS
Tôi gọi cho Germantown vào tháng Giêng, một ngày trước khi bay tới New York để họp với Roundtable. Đây cũng là một trong những cổ phiếu tôi đã khuyến nghị từ năm trước. Khi đó, giá là 10 đô, nay đã lên 14 đô. Germantown kiếm được 2 đô trên mỗi cổ phiếu, tức hệ số P/E dưới 7. Giá trị sổ sách là 26 đô, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản 7,5, và các khoản nợ xấu chưa đến 1%.
Germantown nằm ở vùng ngoại ô Philadelphia. Công ty có 1,4 tỷ đô tài sản và một hồ sơ hoạt động tuyệt vời, vậy mà chẳng có công ty môi giới nào buồn đưa tin. Tôi chuẩn bị cho cuộc gọi bằng cách đọc báo cáo thường niên mới nhất. Tiền gửi tăng, nghĩa là khách hàng tiếp tục để tiền ở đây, nhưng dư nợ cho vay lại giảm. Bên tài sản của bảng cân đối sụt đi. Điều đó có nghĩa là ban lãnh đạo đang thận trọng, tạm thời hạn chế cho vay.
Tôi còn thấy thêm bằng chứng về sự thận trọng của họ ở hạng mục “chứng khoán đầu tư”, tăng thêm 50 triệu đô so với năm trước. Chứng khoán đầu tư bao gồm tín phiếu Kho bạc, trái phiếu, cổ phiếu, và tiền mặt. Một S&L lo lắng về kinh tế hay khả năng tín dụng của người vay sẽ gửi tiền vào trái phiếu, giống như cách nhà đầu tư cá nhân vẫn làm. Khi kinh tế cải thiện và việc cho vay trở nên an toàn, Germantown sẽ bán chứng khoán đầu tư để cho vay nhiều hơn, và điều đó sẽ khiến lợi nhuận tăng vọt.
Khi xem báo cáo kết quả kinh doanh, tôi còn kiểm tra xem liệu có yếu tố bất thường nào khiến nhà đầu tư ngộ nhận hay không. Bạn không muốn bị đánh lừa mua cổ phiếu chỉ vì công ty công bố lợi nhuận tăng, để rồi phát hiện đó chỉ là tác động nhất thời, ví dụ từ việc bán chứng khoán đầu tư. Ở đây, tôi lại thấy điều ngược lại – Germantown thực ra đã chịu một khoản lỗ nhỏ khi bán vài chứng khoán, khiến lợi nhuận thường kỳ bị giảm đi, nhưng không đáng kể.
“Kinh doanh của chúng tôi rất buồn tẻ.”. CEO Martin Kleppe nói khi tôi gọi điện. Đây chính là loại câu chuyện mà ông biết tôi thích. “Chúng tôi cũng có một bảng cân đối vững như pháo đài. Khi chúng tôi gặp khó khăn, những người khác đã phải bước ra cầu ván.”.
Tổn thất và vỡ nợ vốn đã hiếm hoi, nay còn ngày càng ít hơn. Dù vậy, Germantown vẫn tự bảo vệ bằng cách tăng quỹ dự phòng rủi ro cho vay – điều này làm giảm lợi nhuận ngắn hạn, nhưng sẽ giúp lợi nhuận tăng sau này khi số dự phòng không dùng tới được hoàn nhập.
Khu vực quanh Germantown không hẳn là thịnh vượng, nhưng người dân ở đây luôn là những người tiết kiệm và trung thành gửi tiền. Germantown Savings sẽ không phung phí số tiền đó. Tôi tin rằng S&L thận trọng này sẽ sống lâu hơn nhiều đối thủ liều lĩnh hơn và sẽ mang lại lợi nhuận lớn trong tương lai.
SOVEREIGN BANCORP
Trong số báo Barron’s ngày 25 tháng 11 năm 1991, tôi bắt gặp một bài viết có tựa đề “Người cho vay quê nhà của giới thượng lưu”. Bài viết mô tả cách Sovereign Bancorp phục vụ tầng lớp giàu có ở vùng đông nam Pennsylvania, với trụ sở chính đặt tại Reading. Tôi đặc biệt thích chi tiết rằng ở mỗi chi nhánh của Sovereign, cứ khi nào một khoản vay thế chấp được phê duyệt, một hồi chuông lại vang lên.
Đây không phải lần duy nhất trong sự nghiệp tôi được một tờ báo tuần giới thiệu đến một cổ phiếu. Tôi kiểm tra báo cáo thường niên và các báo cáo quý. Ở mọi hạng mục quan trọng, Sovereign đều đạt điểm tốt. Các khoản nợ xấu chỉ chiếm 1% tổng tài sản. Cho vay bất động sản thương mại và xây dựng chỉ chiếm 4%. Sovereign đã lập quỹ dự phòng đủ để bù đắp 100% cho các khoản nợ xấu.
Sovereign đã mua lại hai S&L tại New Jersey từ Resolution Trust Corporation, nhờ đó tăng tiền gửi và cuối cùng sẽ làm tăng lợi nhuận. Để kiểm tra một số chi tiết, tôi gọi cho Jay Sidhu, vị chủ tịch gốc Ấn Độ của Sovereign. Chúng tôi trò chuyện về Bombay và Madras, những nơi tôi từng ghé qua năm trước trong một chuyến đi từ thiện.
Khi bàn đến chuyện nghiêm túc, ông Sidhu cho biết ban lãnh đạo quyết tâm “tăng trưởng” doanh nghiệp ít nhất 12% mỗi năm. Trong khi đó, theo ước tính mới nhất của giới phân tích cho năm 1992, cổ phiếu đang giao dịch ở mức P/E là 8 lần.
Điểm trừ duy nhất là Sovereign đã phát hành thêm 2,5 triệu cổ phiếu trong năm 1991. Chúng ta đã nói rằng thường thì việc công ty mua lại cổ phiếu của mình là tín hiệu tốt (nếu họ có khả năng tài chính), còn việc phát hành thêm cổ phiếu lại là tín hiệu xấu, vì tác động giống như chính phủ in thêm tiền: nó làm loãng giá trị đồng tiền.
Tuy nhiên, ít ra Sovereign không phung phí số tiền thu được từ phát hành cổ phiếu. Họ dùng số tiền này để mua thêm các S&L gặp khó khăn từ Resolution Trust.
Tôi thấy vui khi biết hình mẫu mà Sidhu học hỏi chính là Golden West. Nói ngắn gọn, ông muốn sao chép phong cách tiết kiệm đến mức khắc khổ của vợ chồng Sandler, bằng cách tăng doanh số cho vay và cắt giảm chi phí. Với bộ máy nhân sự mà Sovereign thừa hưởng từ các thương vụ mua lại gần đây, tỷ lệ chi phí trên tài sản là 2,25%, cao hơn nhiều so với 1% của Golden West, nhưng Sidhu tỏ ra quyết tâm giảm con số này. Việc ông sở hữu 4% cổ phiếu công ty càng khiến ông có động lực để thực hiện kế hoạch.
Thay vì giữ lại các khoản vay thế chấp như nhiều S&L khác, Sovereign quyết định chuyên về việc cấp các khoản vay rồi bán chúng cho các đơn vị gom như Fannie Mae hay Freddie Mac. Chiến lược này cho phép Sovereign nhanh chóng thu hồi vốn và tái đầu tư vào các khoản vay mới, hưởng lợi từ các khoản phí ban đầu. Rủi ro sở hữu các khoản vay thế chấp được chuyển sang cho bên khác.
Dù vậy, Sovereign vẫn rất thận trọng trong các loại khoản vay mà họ chấp thuận. Họ chỉ tập trung vào các khoản vay thế chấp nhà ở. Từ năm 1989, họ chưa thực hiện một khoản vay bất động sản thương mại nào. Giá trị trung bình của một khoản vay thế chấp nhà ở không vượt quá 69% giá trị tài sản đảm bảo. Những khoản vay ít ỏi bị xếp vào nợ xấu đều được điều tra kỹ lưỡng để Sovereign rút kinh nghiệm và không lặp lại sai lầm.
Cũng như thường thấy trong các cuộc trò chuyện với doanh nghiệp, lần này tôi lại học được điều mới. Sidhu mô tả một thủ thuật tinh vi mà các ngân hàng và S&L thiếu trung thực sử dụng để che giấu nợ xấu. Ví dụ, một nhà phát triển bất động sản muốn vay 1 triệu đô cho một dự án thương mại, ngân hàng sẽ cho anh ta vay 1,2 triệu dựa trên một bản thẩm định phóng đại. Khoản 200.000 đô dư ra được ngân hàng giữ lại làm quỹ dự phòng. Nếu nhà phát triển vỡ nợ, ngân hàng dùng số tiền này để trả thay, nhờ đó khoản vay tệ hại vẫn được ghi sổ như một khoản vay tốt – ít nhất là tạm thời.
Tôi không rõ thực tế thủ thuật này phổ biến tới đâu, nhưng nếu Sidhu nói đúng, thì đây là một lý do nữa để tránh đầu tư vào những ngân hàng và S&L có danh mục tín dụng bất động sản thương mại lớn.
PEOPLE’S SAVINGS FINANCIAL
Tôi gọi điện cho Giám đốc Tài chính (CFO) John G. Medvec tại trụ sở công ty ở New Britain, Connecticut, gần Hartford. Ông Medvec cho biết nhiều ngân hàng yếu kém trong khu vực đã sụp đổ, và điều này lại củng cố vị thế của People’s như một nơi an toàn để giữ tiền. People’s tận dụng tình hình bằng các chiến dịch quảng cáo, nhấn mạnh rằng đây là một tổ chức vững mạnh với tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản đạt 13%. Nhờ đó, tiền gửi của People’s đã tăng từ 220 triệu đô năm 1990 lên 242 triệu đô năm 1991.
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản của People’s lẽ ra còn cao hơn nếu công ty không dùng một phần vốn để mua lại cổ phiếu. Trong hai giai đoạn, S&L ở Connecticut này đã mua lại 16% số cổ phiếu lưu hành, chi ra tổng cộng 4,4 triệu đô. Nếu tiếp tục mua lại theo cách này, đến một ngày cổ phiếu sẽ trở nên rất khan hiếm và cực kỳ giá trị. Với số cổ phiếu lưu hành ít đi, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu sẽ tăng ngay cả khi hoạt động kinh doanh chỉ đi ngang. Và khi kinh doanh tốt, giá cổ phiếu có thể bùng nổ.
Các nhà quản lý doanh nghiệp thường nói suông về việc “tăng giá trị cho cổ đông” rồi lại tiêu tán tiền bạc vào những vụ thâu tóm viển vông, bỏ qua cách đơn giản và trực tiếp nhất để thưởng cho cổ đông – đó là mua lại cổ phiếu. Những doanh nghiệp “tầm thường” như International Dairy Queen hay Crown Cork & Seal lại đạt thành tích ngoạn mục trên thị trường chứng khoán, bởi vì ban lãnh đạo cam kết mua lại cổ phiếu. Teledyne trở thành một túi 100 gang (x100 lần) cũng nhờ vậy.
Khi People’s Savings Financial lần đầu niêm yết vào năm 1986, cổ phiếu bán với giá 10,25 đô. Năm năm sau, công ty đã lớn hơn và sinh lời hơn, số cổ phiếu còn lại ít hơn, vậy mà giá chỉ là 11 đô. Tôi nghi ngờ điều khiến giá cổ phiếu bị kìm hãm chính là môi trường hoạt động ảm đạm. Ý tôi không phải tinh thần uể oải, mà là nền kinh tế Connecticut đang suy thoái.
Xét cho cùng, tôi thà đầu tư vào một S&L đã chứng minh được khả năng tồn tại trong một nền kinh tế trì trệ, còn hơn là một S&L phất lên nhờ nền kinh tế bùng nổ mà chưa bao giờ bị thử thách trong thời buổi khó khăn.
Trong Thrift Digest, tôi thấy các khoản nợ xấu chỉ chiếm khoảng 2% – mức tương đối khiêm tốn – nhưng tôi muốn kiểm chứng thêm. Medvec nói rằng phần lớn con số 2% đó xuất phát từ một khoản vay xây dựng duy nhất, và People’s hiện không còn thực hiện các khoản vay loại này nữa.
People’s đã hạch toán chi phí dự phòng cho các khoản nợ xấu này vào lợi nhuận. Bước tiếp theo là tiến hành tịch thu tài sản thế chấp. Medvec nhắc lại điều tôi cũng đã nghe ở nơi khác: quá trình tịch thu kéo dài và tốn kém. Có thể mất tới hai năm mới buộc được một con nợ ra khỏi tài sản. Đây không giống cảnh Ebenezer Scrooge sa thải Bob Cratchit, khiến ông cùng cậu bé Tiny Tim phải ra đường, vì hầu hết các vụ vỡ nợ tại People’s đều liên quan đến loại hình cho vay bất động sản thương mại, hoặc là các căn nhà xa xỉ – nơi những kẻ ăn quỵt có thể ở miễn phí hàng tháng trời cho đến khi hết đường kháng cáo.
Cuối cùng, bất động sản bị tịch thu sẽ được ghi nhận vào hạng mục “bất động sản sở hữu”, và từ đó ngân hàng có thể bán để thu hồi phần nào cho khoản vay đã mất. Thậm chí trong một số trường hợp, số tiền thu hồi còn nhiều hơn kỳ vọng, nên vẫn có khả năng thu lợi.
Tôi và Medvec cũng bàn về điều kiện kinh doanh ở khu vực. Khi nói về Connecticut năm 1992, đây quả là điều đáng lo. Ông cho biết trước đây, các nhà sản xuất công cụ là nhóm tuyển dụng lao động lớn nhất ở New Britain, nhưng giờ chỉ còn Stanley Works. Đại học Central Connecticut State và Bệnh viện New Britain General có bù đắp phần nào, nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao.
Trước khi gác máy, tôi hỏi câu quen thuộc: “Anh đánh giá cao đối thủ nào nhất?” Medvec nhắc tới American Savings Bank of New Britain, với tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản 12%, nhưng chưa niêm yết. Tôi đã bị cám dỗ muốn lái xe xuống đó mở một tài khoản, để có thể tham gia ngay từ vòng đầu khi họ phát hành cổ phiếu lần đầu.
FIRST ESSEX
Đây là một trong hai S&L “tái sinh” mà tôi chọn. Trường hợp này cho thấy việc công ty mua lại cổ phiếu của chính mình không phải lúc nào cũng hợp lý. First Essex niêm yết lần đầu vào năm 1987, phát hành 8 triệu cổ phiếu với giá 8 đô một cổ phiếu. Hai năm sau, khi cổ phiếu không nhúc nhích gì, ban lãnh đạo đã mua lại 2 triệu cổ phiếu với đúng giá 8 đô. Nếu họ chờ đến năm 1991, họ đã có thể mua lại với mức chiết khấu 75%, vì khi đó giá cổ phiếu đã rơi xuống chỉ còn 2 đô.
Trong hồ sơ First Essex của tôi có những con số khiến người ta rùng mình: 10% nợ xấu, 3,5% bất động sản sở hữu, và 13% cho vay bất động sản thương mại và xây dựng. S&L nhỏ bé này, đặt tại Lawrence, Massachusetts, đã lỗ 11 triệu đô năm 1989 và thêm 28 triệu đô năm 1990 – nạn nhân của việc cho vay bừa bãi đối với các nhà phát triển chung cư và “ông trùm” bất động sản, những kẻ đã phá sản trong suy thoái. Lawrence nằm ngay sát biên giới New Hampshire, trong một trong những khu vực ảm đạm nhất toàn bộ vùng New England.
“Câu cá ở đáy biển với sợi dây dài 600 feet” – đó là cách CEO Leonard Wilson của First Essex mô tả tình thế của mình khi tôi gọi điện cho ông. Trong ba năm tồi tệ liên tiếp, S&L này phải đối mặt với hàng loạt vụ tịch thu tài sản, mỗi vụ lại “ăn” một phần lợi nhuận, biến First Essex thành chủ sở hữu bất động sản bất đắc dĩ, nghèo tiền mặt nhưng giàu những tòa nhà trống không ai muốn mua. Nó trở thành một trong những chủ sở hữu bất động sản vắng vẻ nhất khu vực – vắng người thuê.
Dẫu vậy, First Essex vẫn còn giá trị sổ sách 7 ⅞ đô, với lượng vốn đủ để duy trì tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản 9. Và đây là một cổ phiếu giá 2 đô.
Đây chính là canh bạc với các S&L như First Essex, vốn đã lâm vào thời kỳ đen tối. Nếu thị trường bất động sản thương mại ổn định trở lại và các vụ tịch thu chấm dứt, công ty sẽ sống sót và cuối cùng bù đắp được khoản thua lỗ. Khi đó, cổ phiếu này hoàn toàn có thể trở thành 10 đô. Vấn đề là: không thể biết chắc khi nào hoặc liệu thị trường bất động sản thương mại phục hồi, hay suy thoái sẽ còn kéo dài đến mức nào.
Từ báo cáo thường niên, tôi thấy First Essex có tổng cộng 46 triệu đô khoản cho vay bất động sản thương mại tính đến cuối năm 1991. Đồng thời, vốn chủ sở hữu cũng là 46 triệu đô. Tỷ lệ 1-1 giữa vốn và cho vay bất động sản thương mại này phần nào mang lại sự an tâm. Nếu 50% số khoản vay bất động sản thương mại đang còn trở thành nợ xấu, First Essex sẽ mất 50% vốn, nhưng vẫn sống sót.
LAWRENCE SAVINGS
Lawrence là một “cú đánh xa” khác, cũng xuất phát từ cùng khu vực thung lũng Merrimack. Công ty gặp đúng vấn đề như First Essex – một nền kinh tế địa phương tồi tệ. Câu chuyện cũng giống nhau: một S&L từng có lãi, sau đó bị cuốn vào làn sóng cho vay bất động sản thương mại ồ ạt, rồi mất hàng triệu đô la, và giá cổ phiếu sụp đổ.
Theo báo cáo thường niên năm 1990, Lawrence vẫn còn tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản là 7,8. Nhưng khi phân tích kỹ, tôi thấy tình hình ở đây rủi ro hơn First Essex. Ở Lawrence, các khoản vay bất động sản thương mại chiếm 21% danh mục cho vay, trong khi ở First Essex chỉ chiếm 13%. Lawrence đã cho vay bất động sản thương mại tới 55 triệu đô, trong khi vốn chủ sở hữu chỉ còn 27 triệu đô. Biên độ an toàn mỏng hơn nhiều. Nếu một nửa số khoản vay bất động sản thương mại đang còn biến thành nợ xấu, công ty sẽ tiêu đời.
Đây chính là cách bạn nên nhìn vào một S&L “cá cược xa”: hãy tìm hiểu vốn chủ sở hữu là bao nhiêu, rồi so sánh với tổng các khoản vay bất động sản thương mại đang còn. Hãy giả định kịch bản xấu nhất.
PHƯƠNG ÁN (GẦN NHƯ) CHẮC THẮNG MÀ CHARLES GIVENS ĐÃ BỎ LỠ
(Charles J. Givens là một diễn giả, tác giả sách dạy làm giàu nhưng sau này vướng nhiều vụ kiện tụng và bị chỉ trích. Cụ Peter Lynch nhắc đến ông như để mỉa mai rằng Givens đã bỏ lỡ một cách đầu tư an toàn và thực tế hơn hẳn những “bí kíp” trong sách của mình.)
Hãy tưởng tượng bạn mua một căn nhà, rồi phát hiện ra rằng chủ cũ đã nhận tấm séc đặt cọc của bạn nhưng lại để toàn bộ số tiền trong một phong bì trong ngăn kéo bếp, kèm theo mảnh giấy ghi: “Cứ giữ lấy, vốn dĩ nó đã thuộc về anh.”. Thế là bạn vừa có căn nhà, lại chẳng tốn một xu.
Đây chính là kiểu bất ngờ dễ chịu đang chờ đợi các nhà đầu tư mua cổ phiếu ở bất kỳ S&L nào được phát hành lần đầu tiên ra công chúng (IPO). Và vì vẫn còn 1.178 S&L chưa thực hiện bước này, sẽ còn rất nhiều cơ hội để nhà đầu tư được “bất ngờ”.
Tôi biết đến khoản “hoàn tiền giấu trong ngăn kéo” này từ khá sớm trong sự nghiệp ở Magellan. Đây là lý do tôi đã mua cổ phiếu ở hầu như tất cả các S&L và ngân hàng tiết kiệm tương hỗ (một tên gọi khác của cùng loại tổ chức) khi chúng xuất hiện trên Quotron.
Theo truyền thống, một S&L hoặc ngân hàng tiết kiệm tương hỗ địa phương không có cổ đông. Nó được sở hữu tập thể bởi tất cả những người gửi tiền, cũng giống như cách các công ty điện nông thôn được tổ chức dưới dạng hợp tác xã và thuộc sở hữu chung của các khách hàng. Giá trị tài sản ròng của một ngân hàng tiết kiệm tương hỗ – có thể đã tích lũy suốt 100 năm – thực chất thuộc về tất cả những người có tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản thanh toán tại chi nhánh.
Chừng nào mô hình sở hữu tập thể này còn duy trì, hàng ngàn người gửi tiền sẽ chẳng được gì từ phần sở hữu của họ trong tổ chức. Phần đó và 1,50 đô có thể đủ mua một cốc nước khoáng.
Khi một ngân hàng tiết kiệm tương hỗ lên sàn và bán cổ phiếu ra công chúng, một điều thú vị xảy ra. Trước hết, các giám đốc S&L – những người sắp đặt thương vụ – và những người mua cổ phiếu ngồi chung một phía. Chính các giám đốc cũng sẽ mua cổ phiếu. Bạn có thể biết họ mua bao nhiêu từ bản cáo bạch kèm theo thương vụ.
Câu hỏi là: làm sao các giám đốc định giá cổ phiếu mà chính họ sẽ mua? Câu trả lời: định giá thấp.
Cả người gửi tiền và các giám đốc đều được quyền mua cổ phiếu với giá chào bán ban đầu. Điều thú vị là: mỗi đô la thu được từ đợt phát hành, sau khi trừ phí bảo lãnh, đều quay lại két sắt của S&L.
Điều này khác với những công ty khác khi niêm yết. Trong các trường hợp đó, một phần lớn tiền thường chảy vào túi những người sáng lập hay cổ đông ban đầu, biến họ thành triệu phú và mua lâu đài ở Ý hay Tây Ban Nha. Nhưng ở đây, vì ngân hàng tiết kiệm tương hỗ thuộc sở hữu của người gửi tiền, nên không thể chia tiền từ đợt bán cổ phiếu cho hàng ngàn người vừa là người bán vừa là người mua. Thay vào đó, toàn bộ số tiền quay trở lại tổ chức, trở thành vốn chủ sở hữu của S&L.
Giả sử ngân hàng tiết kiệm địa phương của bạn có 10 triệu đô vốn chủ sở hữu trước khi niêm yết. Sau đó, họ bán ra 10 triệu đô cổ phiếu – 1 triệu cổ phần giá 10 đô mỗi cổ phần. Khi số tiền này quay lại két sắt, giá trị sổ sách của công ty vừa tăng gấp đôi. Một công ty với giá trị sổ sách 20 đô giờ đây đang bán ở mức 10 đô một cổ phiếu.
Điều này không đảm bảo rằng món “miễn phí” bạn nhận được chắc chắn sẽ là điều tốt đẹp. Nó có thể là một S&L kiểu Jimmy Stewart, hoặc có thể là một S&L “tồi” với ban lãnh đạo yếu kém, thua lỗ và cuối cùng phá sản. Ngay cả trong trường hợp gần như chắc thắng này, bạn vẫn phải tìm hiểu kỹ trước khi đầu tư.
Lần tới khi bạn đi ngang qua một ngân hàng tiết kiệm tương hỗ hay một S&L vẫn còn sở hữu tập thể, hãy nghĩ đến chuyện ghé vào mở tài khoản. Như vậy, bạn sẽ được đảm bảo quyền mua cổ phiếu ở giá chào bán ban đầu khi công ty niêm yết. Tất nhiên, bạn cũng có thể đợi sau khi công ty phát hành rồi mua trên thị trường tự do, và bạn vẫn sẽ có được một món hời.
Nhưng đừng đợi quá lâu. Phố Wall dường như đang dần “bắt bài” chiêu “tiền giấu trong ngăn kéo”, và mức tăng giá cổ phiếu của các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ và S&L sau khi chuyển đổi sang mô hình công ty cổ phần kể từ năm 1991 đến nay quả thực phi thường. Đó đã là một cơn mưa vàng gần như ở khắp mọi nơi.
Năm 1991, có 16 ngân hàng tiết kiệm tương hỗ và S&L lên sàn. Hai công ty được thâu tóm với giá gấp hơn bốn lần giá chào bán, và trong số 14 công ty còn lại, công ty tệ nhất cũng tăng 87%. Tất cả các công ty khác đều tăng gấp đôi hoặc hơn, trong đó có bốn công ty tăng gấp ba, một công ty tăng gấp bảy, và một công ty tăng gấp mười. Hãy tưởng tượng kiếm được gấp 10 lần số tiền trong vòng 32 tháng chỉ nhờ đầu tư vào Magna Bancorp, Inc., ở Hattiesburg, Mississippi.
Năm 1992, có thêm 42 ngân hàng tiết kiệm tương hỗ niêm yết. Chỉ có duy nhất một công ty thua lỗ – First FS&LA của San Bernardino – và nó cũng chỉ giảm 7,5%. Tất cả các công ty khác đều tăng – trong đó 38 công ty tăng 50% trở lên, 23 công ty tăng gấp đôi hoặc hơn. Những mức tăng này chỉ trong vòng 20 tháng!
Trong nhóm này có hai công ty tăng gấp bốn lần – Mutual Savings Bank of Bay City, Michigan, và United Postal Bancorp ở St. Louis. Một danh mục gồm năm công ty đứng đầu mang lại mức lợi nhuận 285%. Ngay cả người kém may mắn chọn nhầm năm công ty tệ nhất lên sàn năm 1992 cũng đã lãi 31% tính đến tháng 9 năm 1993. Đầu tư vào nhóm tệ nhất này còn thắng cả chỉ số S&P 500 và hầu hết quỹ tương hỗ cổ phiếu.
Trong chín tháng đầu năm 1993, có thêm 34 ngân hàng tiết kiệm tương hỗ niêm yết, và chỉ trong khoảng thời gian ngắn đó, công ty tệ nhất vẫn tăng 5%. Có 26 công ty tăng ít nhất 30%, 20 công ty tăng ít nhất 40%, và 9 công ty tăng ít nhất 50%. (Tất cả số liệu này do nhóm phân tích của SNL Securities cung cấp.)
Từ Asheboro, North Carolina, tới Ipswich, Massachusetts, trên bờ Đông; từ Pasadena, California, tới Everett, Washington, trên bờ Tây; từ Stillwater, Oklahoma, tới Kankakee, Illinois, tới Rosenberg, Texas, ở miền Trung – các S&L địa phương đã trở thành khoản đầu tư tuyệt vời nhất mà hàng trăm ngàn người từng thực hiện. Đây chính là ví dụ rõ ràng nhất cho thấy nhà đầu tư cá nhân có thể thành công bằng cách bỏ qua những công ty được các định chế nắm giữ nhiều, và thay vào đó tìm hiểu kỹ lưỡng những gì gần gũi với mình. Có gì gần gũi hơn một ngân hàng tiết kiệm địa phương – nơi bạn để két an toàn và tài khoản thanh toán?
Mở một tài khoản ở bất kỳ ngân hàng tiết kiệm hay S&L nào trong số này sẽ cho bạn quyền tham gia IPO khi nó diễn ra, nhưng bạn hoàn toàn không bắt buộc. Bạn có thể đến buổi họp giới thiệu thương vụ, xem thử lãnh đạo có mua cổ phiếu hay không, đọc bản cáo bạch để biết giá trị sổ sách, P/E, lợi nhuận, tỷ lệ nợ xấu, chất lượng danh mục cho vay, v.v. – tức là có đủ thông tin để đưa ra quyết định sáng suốt. Đó là cơ hội để xem xét kỹ lưỡng một công ty địa phương – và miễn phí. Nếu không thích thương vụ, tổ chức hay ban lãnh đạo, bạn đơn giản là không đầu tư.
Hiện vẫn còn 1.372 ngân hàng tiết kiệm tương hỗ chưa lên sàn. Hãy kiểm tra xem có công ty nào trong số này ở khu vực bạn không. Chỉ cần mở một tài khoản tiết kiệm, bạn sẽ có quyền tham gia IPO khi nó diễn ra. Rồi cứ ngồi chờ thời cơ.
Kiên học được 3 điểm rất hay qua phân tích của cụ Peter Lynch ở các ví dụ:
Germantown Savings: Cách phân tích xu hướng biến động khoản mục Chứng khoán đầu tư và Cho vay khách hàng.
Sovereign Bancorp: Tránh đầu tư vào những ngân hàng và S&L có danh mục tín dụng bất động sản thương mại lớn.
First Essex & Lawrence Savings: Phân tích các cty S&L tái sinh bằng cách so sánh vốn chủ sở hữu với tổng các khoản cho vay bất động sản thương mại.